Mặt trận Bình dân Pháp (tiếng Pháp: Front populaire) là một liên minh chính trị của các lực lượng cánh tả ở Pháp, bao gồm Đảng Cộng sản, Chi hội Pháp của Công nhân Lao động Quốc tế (SFIO), Đảng Cấp tiến và các chính đảng, tổ chức chính trị khác trong thời kì 1936 - 1938. Ba tháng sau chiến thắng của Mặt trận Bình dân Tây Ban Nha, Mặt trận Bình dân Pháp giành chiến thắng trong cuộc bầu cử cơ quan dân biểu Pháp tháng 5 năm 1936, dẫn tới việc thành lập một chính phủ đầu tiên do lãnh đạo SFIO Léon Blum đứng đầu và chỉ bao gồm các bộ trưởng của phe xã hội Chủ nghĩa cấp tiến và SFIO.
Xem: bài viết của tác giả Lê Tranh Hùng “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến năm 2013”;
4. Xem: bài viết của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Hân “Ghi nhận mới về quyền con người trong Hiến pháp năm 2013”;
5. Xem: bài viết của tác giả Bình Sơn “Quyền con người được chú trọng trong hoạt động Lập pháp”;
6. Một số bài viết từ nguồn intenet.
Chủ thể và nội dung quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dânMột là, đã khắc phục được sự nhầm lẫn giữa quyền con người với quyền công dân. Hiến pháp năm 2013 không còn đồng nhất quyền con người với quyền công dân như ở Điều 50 của Hiến pháp năm 1992, mà đã phân biệt và sử dụng hai thuật ngữ “mọi người” và “công dân” cho việc chế định các quyền con người và quyền công dân (Chương II).Hai là, mở rộng nội hàm chủ thể quyền. Trong các bản hiến pháp trước đây, đặc biệt là Hiến pháp năm 1992, nội hàm của quyền con người chỉ dừng lại ở khái niệm chủ thể là “công dân”, chứ không phải là “mọi người”. Trong Hiến pháp năm 2013, các chủ thể quyền được mở rộng, không chỉ là “công dân”, mà còn là “mọi người”, “tổ chức” hay nhóm xã hội và cộng đồng, đặc biệt là những nhóm dễ bị tổn thương (trẻ em, thanh niên, người cao tuổi).Ba là, mở rộng nội dung quyền. Hiến pháp năm 2013 đã nâng tầm chế định quyền con người, quyền công dân thành một chương. So với hiến pháp của nhiều quốc gia, Hiến pháp năm 2013 của nước ta thuộc vào những hiến pháp ghi nhận một số lượng cao về quyền con người. Hiến pháp đã dành 36 điều ở Chương II trên tổng số 120 điều của Hiến pháp cho việc chế định trực tiếp các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Ngoài ra, Hiến pháp năm 2013 còn dành một số điều chế định sự bảo hộ hay bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp về tài sản hợp pháp, sử dụng đất, lao động và việc làm (Điều 51, 54, 57). Việc sắp xếp quyền con người phù hợp với việc sắp xếp các nhóm quyền của luật nhân quyền quốc tế là quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa. Hiến pháp năm 2013 quy định rõ hơn hoặc tách thành điều riêng hầu hết các quyền đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992, bao gồm: bình đẳng trước pháp luật (Điều 16); không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm (khoản 1, Điều 20); bảo vệ đời tư (Điều 21); tiếp cận thông tin (Điều 25); tham gia quản lý nhà nước và xã hội (Điều 28); bình đẳng giới (Điều 26); quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân (Điều 29); được xét xử công bằng, công khai (Điều 31); bảo đảm an sinh xã hội (Điều 34); quyền việc làm (Điều 35);...Đặc biệt, Điều 20 và 21 của Hiến pháp năm 2013 quy định rõ, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của mọi người đều được bảo vệ; do đó, đã mở rộng chủ thể và nội dung quyền được bảo vệ về đời tư so với Điều 73 của Hiến pháp năm 1992 - chỉ quy định về quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín. Nếu Điều 63 của Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ, thì Hiến pháp năm 2013 quy định “nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới” (Điều 26), tức là đã thay đổi quan niệm và cách tiếp cận về bình đẳng giới, từ chỉ bình đẳng với giới nữ sang bình đẳng với cả giới nam và giới nữ. Chủ thể và nội dung quyền bình đẳng về giới, do vậy, được mở rộng và làm sâu sắc hơn.Không chỉ củng cố các quyền đã được hiến định trong Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 còn chế định một số quyền mới, như quyền sống (Điều 19); các quyền về nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó (Điều 40); quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa (Điều 41); quyền xác định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp (Điều 42); quyền được sống trong môi trường trong lành (Điều 43); quyền không thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác (khoản 2, Điều 17).Bốn là, quy định về hạn chế quyền. Khoản 2, Điều 14 của Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Việc quy định về hạn chế quyền là cần thiết để bảo đảm quyền con người, quyền công dân được thực hiện một cách minh bạch, phòng ngừa sự cắt xén hay hạn chế các quyền này một cách tùy tiện từ phía các cơ quan nhà nước. Năm là, quy định nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi người, mỗi công dân. So với các bản hiến pháp trước đây, trong Hiến pháp năm 2013, việc quy định nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi người, mỗi công dân có nội dung đầy đủ, rõ ràng hơn. Điều 15 của Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “2. Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác”; “4. Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”. Thể chế hiến pháp và pháp luật bảo đảm quyền con người, quyền công dân- Công dân và mọi người được hưởng các quyền con người một cách mặc nhiên và Nhà nước có nghĩa vụ công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm (thực hiện) các quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp và pháp luật. Điều 51 của Hiến pháp năm 1992 quy định: “Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định”. Việc quy định như thế đã gây hiểu nhầm là Hiến pháp và pháp luật (hay Nhà nước) là những chủ thể sản sinh ra các quyền con người. Cách hiểu như thế không phù hợp với nhận thức chung về quyền con người trên thế giới. Theo quan điểm của cộng đồng quốc tế, mọi thành viên của nhân loại khi sinh ra đã mặc nhiên có tư cách chủ thể của các quyền con người. Các nhà nước chỉ có thể thừa nhận (bằng hiến pháp và pháp luật) các quyền đó như là những giá trị vốn có của mọi cá nhân mà nhà nước có nghĩa vụ công nhận, tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy. Kế thừa Hiến pháp năm 1946 và tinh hoa tư tưởng nhân loại, trong Hiến pháp năm 2013, tại khoản 1, Điều 14 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. - Việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân gắn bó mật thiết với việc bảo đảm chế độ chính trị. Trong Hiến pháp năm 2013, chế định về quyền con người, quyền công dân được đưa lên Chương II, ngay sau chương chế định về chế độ chính trị (so với vị trí thứ 5 trong Hiến pháp năm 1992). Đây không chỉ đơn thuần là kỹ thuật lập hiến, mà còn phản ánh sự thay đổi trong nhận thức lý luận về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bằng cách đó, đã đi đến khẳng định: Nhà nước được lập ra là để bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người, quyền công dân; việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân gắn bó mật thiết với việc bảo đảm chế độ chính trị.- Thể chế kinh tế, xã hội và văn hóa để bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Về thể chế kinh tế, xã hội và văn hóa, Chương III của Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong lĩnh vực lao động, việc làm, an sinh xã hội, y tế, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, phát triển con người (từ Điều 57 đến Điều 60); đồng thời, bổ sung quy định về trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động và tạo điều kiện xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định (Điều 57). Về phát triển giáo dục và khoa học, công nghệ, cùng với việc chế định quyền trong lĩnh vực này, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định phát triển giáo dục, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, đồng thời xác định những mục tiêu và định hướng chính trong việc phát triển giáo dục và khoa học, công nghệ (Điều 61, 62).Về môi trường, cùng với việc chế định quyền trong lĩnh vực này, Hiến pháp năm 2013 nêu rõ Nhà nước có chính sách bảo vệ môi trường; quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên; bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu (Điều 63).- Thể chế tư pháp để bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định về cấm truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân (Điều 71). Đến Hiến pháp năm 2013, ở Điều 20, lần đầu tiên trong lịch sử hiến pháp nước ta, đã chế định về cấm tra tấn nói riêng và cấm bất kỳ hình thức bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của mọi người. Quy định này cụ thể, rõ ràng và rộng hơn so với quy định cũ, cả về hành vi bị cấm, cả về chủ thể được bảo vệ.Hiến pháp năm 1992, tại Điều 72, quy định quyền tố tụng công dân chỉ gồm: suy đoán vô tội; bồi thường thiệt hại vật chất và phục hồi danh dự cho người bị oan sai trong tố tụng; xử lý nghiêm minh người làm trái pháp luật trong thi hành tố tụng gây thiệt hại cho người khác. Hiến pháp năm 2013 bổ sung: xét xử kịp thời, công bằng, công khai; không bị kết án hai lần vì một tội phạm; quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa (Điều 31). Quy định mới này đã mở rộng chủ thể và phạm vi quyền đòi bồi thường thiệt hại; đồng thời buộc các cơ quan tiến hành tố tụng phải công bằng và khách quan trong việc tìm chứng cứ, coi trọng cả chứng cứ buộc tội, cả chứng cứ gỡ tội.Nếu Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định công dân “có quyền được thông tin” (Điều 69), thì Hiến pháp năm 2013, ở Điều 25, thay chữ “được” bằng cụm từ “tiếp cận”. Nhờ quyền tiếp cận thông tin, mọi công dân có thể tiếp cận thông tin, cả về các quyền thực định cũng như về hoạt động tư pháp, để thụ hưởng đầy đủ và bảo vệ các quyền của mình theo Hiến pháp và pháp luật.- Xác định đầy đủ nghĩa vụ của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Trong khi Điều 50 của Hiến pháp năm 1992 mới chỉ ghi nhận nghĩa vụ tôn trọng thì Hiến pháp năm 2013 ghi nhận cả bốn nghĩa vụ của Nhà nước về công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm (thực hiện) quyền con người (Điều 3 và Điều 14), tương tự như sự xác định ở Lời mở đầu của Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (năm 1948).Hiến pháp năm 2013 tái khẳng định quyền tham gia quản lý nhà nước của công dân và bổ sung: “Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân” (Điều 28). Việc bổ sung này đã ràng buộc nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước trong bảo đảm quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của người dân; qua đó, bảo đảm để quyền này của người dân được thực hiện trong thực tế.- Chế định những công cụ hữu hiệu và quy định việc thiết lập cơ chế bảo vệ Hiến pháp, trong đó có các quyền con người đã được hiến định. Hiến pháp năm 2013 chế định những công cụ hữu hiệu cho việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân, đó là Hội đồng Bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước, và sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp. Khoản 2, Điều 119 khẳng định: “Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định”. Đây là quy định có tính nguyên tắc nhằm thiết lập cơ chế bảo vệ Hiến pháp, trong đó có các quyền con người đã được hiến định một cách hiệu quả và ở mức cao nhất .Yêu cầu thể chế hóa các quyền hiến định trong hệ thống pháp luật Việt NamThứ nhất, thể chế hóa các quyền hiến định, đồng thời rà soát, sửa đổi các văn bản pháp luật hiện hành để tạo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam và trên cơ sở Hiến pháp năm 2013. Hiến pháp là đạo luật cơ bản, giữ vai trò quyết định khung khổ và cấu trúc của toàn bộ hệ thống pháp luật quốc gia. Một mặt, mỗi quyền hiến định có thể được thể chế hóa thành một luật hoặc bộ luật (như quyền lao động), nhưng cũng có thể liên quan đến nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Mặt khác, với việc ban hành Hiến pháp mới, nhiều quy định trong các văn bản pháp luật hiện hành có thể không còn phù hợp. Vì thế, phải thể chế hóa các quyền hiến định, đồng thời rà soát, sửa đổi các văn bản pháp luật để tạo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam theo và trên cơ sở Hiến pháp năm 2013.Thứ hai, bảo đảm sự bình đẳng giữa các quyền. Hầu hết các hiến pháp hiện hành trên thế giới chỉ quy định những quyền cơ bản (mặc dù quan niệm về các quyền cơ bản là rất khác nhau giữa các quốc gia). Vì thế, có một số quyền con người, tuy không được chế định trong hiến pháp, nhưng có thể được quy định trong các văn bản pháp luật khác của quốc gia. Do đó, nếu không thể chế hóa các quyền hiến định thì có thể gây ra hiểu nhầm rằng, những quyền hiến định quan trọng hơn và cần được ưu tiên bảo đảm thực hiện hơn so với các quyền không được hiến định.Thứ ba, cụ thể hóa các quyền hiến định để thực hiện được trên thực tế. Nhìn chung, có nhiều quyền hiến định rất khó thực hiện được trên thực tế. Ví dụ, quyền tiếp cận thông tin quy định ở Điều 25 của Hiến pháp năm 2013, trong khi Điều 21 của Hiến pháp này mới chủ yếu quy định phạm vi thông tin (về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình) và nội dung thông tin (thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác) trong quyền được bảo vệ thông tin. Theo Luật Nhân quyền quốc tế và hiến pháp của nhiều nước trên thế giới, quyền tiếp cận thông tin thường bao gồm ba quyền phái sinh là: quyền được thông tin, quyền được tìm kiếm thông tin, quyền được phổ biến thông tin. Do đó, cần xây dựng luật để bảo đảm đầy đủ quyền tiếp cận thông tin, trên cơ sở đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013.Thứ tư, thể chế hóa những quyền không được hiến định. Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam và tất cả các hiến pháp trên thế giới không thể liệt kê được đầy đủ hệ thống các quyền, vì các quyền cũng vận động, biến đổi cùng với sự phát triển của đời sống xã hội, và cũng không cần thiết phải làm như vậy. Do đó, phải thể chế hóa các quyền chưa được và không cần thiết phải hiến định thành các văn bản pháp luật, như cấm chế độ nô lệ, nô dịch hoặc cưỡng bức lao động; quyền của người không quốc tịch; quyền đình công; quyền biểu tình; quyền lao động của người vị thành niên; quyền nghỉ ngơi;..../.
TCCSĐT - Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã chế định đầy đủ các quyền con người, quyền công dân. Trên cơ sở đó, cần thể chế hóa các quyền hiến định, đồng thời rà soát, sửa đổi các văn bản pháp luật hiện hành để tạo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Chủ thể và nội dung quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
Một là, đã khắc phục được sự nhầm lẫn giữa quyền con người với quyền công dân.Hiến pháp năm 2013 không còn đồng nhất quyền con người với quyền công dân như ở Điều 50 của Hiến pháp năm 1992, mà đã phân biệt và sử dụng hai thuật ngữ “mọi người” và “công dân” cho việc chế định các quyền con người và quyền công dân (Chương II).
Hai là, mở rộng nội hàm chủ thể quyền.Trong các bản hiến pháp trước đây, đặc biệt là Hiến pháp năm 1992, nội hàm của quyền con người chỉ dừng lại ở khái niệm chủ thể là “công dân”, chứ không phải là “mọi người”. Trong Hiến pháp năm 2013, các chủ thể quyền được mở rộng, không chỉ là “công dân”, mà còn là “mọi người”, “tổ chức” hay nhóm xã hội và cộng đồng, đặc biệt là những nhóm dễ bị tổn thương (trẻ em, thanh niên, người cao tuổi).
Ba là, mở rộng nội dung quyền.Hiến pháp năm 2013 đã nâng tầm chế định quyền con người, quyền công dân thành một chương. So với hiến pháp của nhiều quốc gia, Hiến pháp năm 2013 của nước ta thuộc vào những hiến pháp ghi nhận một số lượng cao về quyền con người. Hiến pháp đã dành 36 điều ở Chương II trên tổng số 120 điều của Hiến pháp cho việc chế định trực tiếp các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Ngoài ra, Hiến pháp năm 2013 còn dành một số điều chế định sự bảo hộ hay bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp về tài sản hợp pháp, sử dụng đất, lao động và việc làm (Điều 51, 54, 57). Việc sắp xếp quyền con người phù hợp với việc sắp xếp các nhóm quyền của luật nhân quyền quốc tế là quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa.
Hiến pháp năm 2013 quy định rõ hơn hoặc tách thành điều riêng hầu hết các quyền đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992, bao gồm: bình đẳng trước pháp luật (Điều 16); không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm (khoản 1, Điều 20); bảo vệ đời tư (Điều 21); tiếp cận thông tin (Điều 25); tham gia quản lý nhà nước và xã hội (Điều 28); bình đẳng giới (Điều 26); quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân (Điều 29); được xét xử công bằng, công khai (Điều 31); bảo đảm an sinh xã hội (Điều 34); quyền việc làm (Điều 35);...
Đặc biệt, Điều 20 và 21 của Hiến pháp năm 2013 quy định rõ, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của mọi người đều được bảo vệ; do đó, đã mở rộng chủ thể và nội dung quyền được bảo vệ về đời tư so với Điều 73 của Hiến pháp năm 1992 - chỉ quy định về quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín. Nếu Điều 63 của Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ, thì Hiến pháp năm 2013 quy định “nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới” (Điều 26), tức là đã thay đổi quan niệm và cách tiếp cận về bình đẳng giới, từ chỉ bình đẳng với giới nữ sang bình đẳng với cả giới nam và giới nữ. Chủ thể và nội dung quyền bình đẳng về giới, do vậy, được mở rộng và làm sâu sắc hơn.
Không chỉ củng cố các quyền đã được hiến định trong Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 còn chế định một số quyền mới, như quyền sống (Điều 19); các quyền về nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó (Điều 40); quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa (Điều 41); quyền xác định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp (Điều 42); quyền được sống trong môi trường trong lành (Điều 43); quyền không thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác (khoản 2, Điều 17).
Bốn là, quy định về hạn chế quyền.Khoản 2, Điều 14 của Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Việc quy định về hạn chế quyền là cần thiết để bảo đảm quyền con người, quyền công dân được thực hiện một cách minh bạch, phòng ngừa sự cắt xén hay hạn chế các quyền này một cách tùy tiện từ phía các cơ quan nhà nước.
Năm là, quy định nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi người, mỗi công dân.So với các bản hiến pháp trước đây, trong Hiến pháp năm 2013, việc quy định nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi người, mỗi công dân có nội dung đầy đủ, rõ ràng hơn. Điều 15 của Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “2. Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác”; “4. Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”.
Thể chế hiến pháp và pháp luật bảo đảm quyền con người, quyền công dân
- Công dân và mọi người được hưởng các quyền con người một cách mặc nhiên và Nhà nước có nghĩa vụ công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm (thực hiện) các quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp và pháp luật.Điều 51 của Hiến pháp năm 1992 quy định: “Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định”. Việc quy định như thế đã gây hiểu nhầm là Hiến pháp và pháp luật (hay Nhà nước) là những chủ thể sản sinh ra các quyền con người. Cách hiểu như thế không phù hợp với nhận thức chung về quyền con người trên thế giới. Theo quan điểm của cộng đồng quốc tế, mọi thành viên của nhân loại khi sinh ra đã mặc nhiên có tư cách chủ thể của các quyền con người. Các nhà nước chỉ có thể thừa nhận (bằng hiến pháp và pháp luật) các quyền đó như là những giá trị vốn có của mọi cá nhân mà nhà nước có nghĩa vụ công nhận, tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy.
Kế thừa Hiến pháp năm 1946 và tinh hoa tư tưởng nhân loại, trong Hiến pháp năm 2013, tại khoản 1, Điều 14 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”.
- Việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân gắn bó mật thiết với việc bảo đảm chế độ chính trị.Trong Hiến pháp năm 2013, chế định về quyền con người, quyền công dân được đưa lên Chương II, ngay sau chương chế định về chế độ chính trị (so với vị trí thứ 5 trong Hiến pháp năm 1992). Đây không chỉ đơn thuần là kỹ thuật lập hiến, mà còn phản ánh sự thay đổi trong nhận thức lý luận về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bằng cách đó, đã đi đến khẳng định: Nhà nước được lập ra là để bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người, quyền công dân; việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân gắn bó mật thiết với việc bảo đảm chế độ chính trị.
- Thể chế kinh tế, xã hội và văn hóa để bảo đảm quyền con người, quyền công dân.Về thể chế kinh tế, xã hội và văn hóa, Chương III của Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong lĩnh vực lao động, việc làm, an sinh xã hội, y tế, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, phát triển con người (từ Điều 57 đến Điều 60); đồng thời, bổ sung quy định về trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động và tạo điều kiện xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định (Điều 57).
Về phát triển giáo dục và khoa học, công nghệ, cùng với việc chế định quyền trong lĩnh vực này, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định phát triển giáo dục, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, đồng thời xác định những mục tiêu và định hướng chính trong việc phát triển giáo dục và khoa học, công nghệ (Điều 61, 62).
Về môi trường, cùng với việc chế định quyền trong lĩnh vực này, Hiến pháp năm 2013 nêu rõ Nhà nước có chính sách bảo vệ môi trường; quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên; bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu (Điều 63).
- Thể chế tư pháp để bảo đảm quyền con người, quyền công dân.Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định về cấm truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân (Điều 71). Đến Hiến pháp năm 2013, ở Điều 20, lần đầu tiên trong lịch sử hiến pháp nước ta, đã chế định về cấm tra tấn nói riêng và cấm bất kỳ hình thức bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của mọi người. Quy định này cụ thể, rõ ràng và rộng hơn so với quy định cũ, cả về hành vi bị cấm, cả về chủ thể được bảo vệ.
Hiến pháp năm 1992, tại Điều 72, quy định quyền tố tụng công dân chỉ gồm: suy đoán vô tội; bồi thường thiệt hại vật chất và phục hồi danh dự cho người bị oan sai trong tố tụng; xử lý nghiêm minh người làm trái pháp luật trong thi hành tố tụng gây thiệt hại cho người khác. Hiến pháp năm 2013 bổ sung: xét xử kịp thời, công bằng, công khai; không bị kết án hai lần vì một tội phạm; quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa (Điều 31). Quy định mới này đã mở rộng chủ thể và phạm vi quyền đòi bồi thường thiệt hại; đồng thời buộc các cơ quan tiến hành tố tụng phải công bằng và khách quan trong việc tìm chứng cứ, coi trọng cả chứng cứ buộc tội, cả chứng cứ gỡ tội.
Nếu Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định công dân “có quyền được thông tin” (Điều 69), thì Hiến pháp năm 2013, ở Điều 25, thay chữ “được” bằng cụm từ “tiếp cận”. Nhờ quyền tiếp cận thông tin, mọi công dân có thể tiếp cận thông tin, cả về các quyền thực định cũng như về hoạt động tư pháp, để thụ hưởng đầy đủ và bảo vệ các quyền của mình theo Hiến pháp và pháp luật.
- Xác định đầy đủ nghĩa vụ của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Trong khi Điều 50 của Hiến pháp năm 1992 mới chỉ ghi nhận nghĩa vụ tôn trọng thì Hiến pháp năm 2013 ghi nhận cả bốn nghĩa vụ của Nhà nước về công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm (thực hiện) quyền con người (Điều 3 và Điều 14), tương tự như sự xác định ở Lời mở đầu của Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (năm 1948).
Hiến pháp năm 2013 tái khẳng định quyền tham gia quản lý nhà nước của công dân và bổ sung: “Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân” (Điều 28). Việc bổ sung này đã ràng buộc nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước trong bảo đảm quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của người dân; qua đó, bảo đảm để quyền này của người dân được thực hiện trong thực tế.
- Chế định những công cụ hữu hiệu và quy định việc thiết lập cơ chế bảo vệ Hiến pháp, trong đó có các quyền con người đã được hiến định.Hiến pháp năm 2013 chế định những công cụ hữu hiệu cho việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân, đó là Hội đồng Bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước, và sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp. Khoản 2, Điều 119 khẳng định: “Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định”. Đây là quy định có tính nguyên tắc nhằm thiết lập cơ chế bảo vệ Hiến pháp, trong đó có các quyền con người đã được hiến định một cách hiệu quả và ở mức cao nhất .
Yêu cầu thể chế hóa các quyền hiến định trong hệ thống pháp luật Việt Nam
Thứ nhất, thể chế hóa các quyền hiến định, đồng thời rà soát, sửa đổi các văn bản pháp luật hiện hành để tạo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam và trên cơ sở Hiến pháp năm 2013.Hiến pháp là đạo luật cơ bản, giữ vai trò quyết định khung khổ và cấu trúc của toàn bộ hệ thống pháp luật quốc gia.Một mặt,mỗi quyền hiến định có thể được thể chế hóa thành một luật hoặc bộ luật (như quyền lao động), nhưng cũng có thể liên quan đến nhiều văn bản pháp luật khác nhau.Mặt khác, với việc ban hành Hiến pháp mới, nhiều quy định trong các văn bản pháp luật hiện hành có thể không còn phù hợp. Vì thế, phải thể chế hóa các quyền hiến định, đồng thời rà soát, sửa đổi các văn bản pháp luật để tạo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam theo và trên cơ sở Hiến pháp năm 2013.
Thứ hai, bảo đảm sự bình đẳng giữa các quyền.Hầu hết các hiến pháp hiện hành trên thế giới chỉ quy định những quyền cơ bản (mặc dù quan niệm về các quyền cơ bản là rất khác nhau giữa các quốc gia). Vì thế, có một số quyền con người, tuy không được chế định trong hiến pháp, nhưng có thể được quy định trong các văn bản pháp luật khác của quốc gia. Do đó, nếu không thể chế hóa các quyền hiến định thì có thể gây ra hiểu nhầm rằng, những quyền hiến định quan trọng hơn và cần được ưu tiên bảo đảm thực hiện hơn so với các quyền không được hiến định.
Thứ ba, cụ thể hóa các quyền hiến định để thực hiện được trên thực tế. Nhìn chung, có nhiều quyền hiến định rất khó thực hiện được trên thực tế. Ví dụ, quyền tiếp cận thông tin quy định ở Điều 25 của Hiến pháp năm 2013, trong khi Điều 21 của Hiến pháp này mới chủ yếu quy định phạm vi thông tin (về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình) và nội dung thông tin (thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác) trong quyền được bảo vệ thông tin. Theo Luật Nhân quyền quốc tế và hiến pháp của nhiều nước trên thế giới, quyền tiếp cận thông tin thường bao gồm ba quyền phái sinh là: quyền được thông tin, quyền được tìm kiếm thông tin, quyền được phổ biến thông tin. Do đó, cần xây dựng luật để bảo đảm đầy đủ quyền tiếp cận thông tin, trên cơ sở đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013.
Thứ tư, thể chế hóa những quyền không được hiến định.Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam và tất cả các hiến pháp trên thế giới không thể liệt kê được đầy đủ hệ thống các quyền, vì các quyền cũng vận động, biến đổi cùng với sự phát triển của đời sống xã hội, và cũng không cần thiết phải làm như vậy. Do đó, phải thể chế hóa các quyền chưa được và không cần thiết phải hiến định thành các văn bản pháp luật, như cấm chế độ nô lệ, nô dịch hoặc cưỡng bức lao động; quyền của người không quốc tịch; quyền đình công; quyền biểu tình; quyền lao động của người vị thành niên; quyền nghỉ ngơi;...
Nguyễn Thanh Tuấn PGS, TS. Phó Viện trưởng Viện
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Ngày 18 – 11 – 1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị về vấn đề thành lập Hội Phản đế đồng minh. Chỉ thị đã kế thừa được tư tưởng về MTDTTN của Hội nghị thành lập Đảng và khắc phục những biểu hiện ấu trĩ, “tả” khuynh, giáo điều của Hội nghị Trung ương lần thứ nhất. Với nội dung chỉ đạo cụ thể, đúng đắn về thành lập Hội Phản đế đồng minh, chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương đã đặt cơ sở lý luận và thực tiễn cho sự ra đời MTDTTN. Chính vì thế, ngày 18 – 11 – 1930 được lấy làm ngày thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất.
Từ sau Hội nghị thành lập Đảng, do cao trào cách mạng nổ ra nhanh chóng, tiếp đó phong trào bị thực dân Pháp đàn áp khốc liệt nên MTDTTN không được hình thành về mặt tổ chức. Tuy nhiên, cao trào cách mạng của các tầng lớp nhân dân cả nước mà nòng cốt là khối liên minh công nông từ giữa năm 1930 đến năm 1931 đã hình thành trên thực tế phong trào MTDTTN. Cao trào cách mạng 1930 – 1931, đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh là cuộc tổng diễn tập đấu tranh giành chính quyền đầu tiên của nhân dân ta. Thời kỳ thoái trào cách mạng, Trung ương Đảng ra bản Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương (6 – 1932), trong đó đề ra những hình thức tổ chức và đấu tranh để giữ gìn và phát triển phong trào Mặt trận. Nhờ sự chỉ đạo kịp thời của Đảng, phong trào tuy có bị tổn thất, nhưng các tổ chức quần chúng vẫn được duy trì và mở rộng.
Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng (3 – 1935) đã xác định công tác tranh thủ rộng rãi quần chúng là một nhiệm vụ “trung tâm, căn bản, cần kíp của Đảng hiện thời”. Đại hội quyết định thành lập và thông qua điều lệ của Đông Dương Phản đế liên minh. Đây là những chủ trương đúng đắn của Đại hội, nhưng tình hình thế giới và trong nước thay đổi nên chủ trương về Đông Dương Phản đế liên minh không được triển khai thực hiện rộng rãi.
Từ tháng 7 - 1936, thực hiện sự chuyển hướng chiến lược cách mạng của Quốc tế Cộng sản và căn cứ vào tình hình thực tiễn trong nước, Ban lãnh đạo của Đảng đã kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, chủ trương thành lập Mặt trận Dân chủ, tập hợp lực lượng đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, chống phản động thuộc địa, chống chiến tranh. Phong trào dân chủ nổ ra rất mạnh mẽ, trở thành một cao trào cách mạng mới kéo dài từ giữa năm 1936 đến gần cuối năm 1939 với nhiều hình thức tổ chức và đấu tranh, giành được nhiều thắng lợi trong việc đòi quyền dân sinh, dân chủ.
Về tổ chức, Mặt trận Dân chủ chưa hoàn chỉnh, chưa thành hệ thống thống nhất, nhưng về phong trào, Mặt trận Dân chủ đã phát triển vượt bậc so với các phong trào trước đây. Cao trào đấu tranh dân chủ 1936 – 1939 là cuộc tổng diễn tập thứ hai của nhân dân ta trong đấu tranh giành chính quyền.
Tháng 9 – 1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, nước Pháp bị lôi cuốn vào cuộc chiến tranh. Thực dân Pháp ở Đông Dương mở cuộc tấn công vào Đảng Cộng sản và phong trào quần chúng; đồng thời chúng vơ vét nhân tài, vật lực ở Đông Dương ném vào cuộc chiến tranh đế quốc. Đời sống các tầng lớp nhân dân ta lâm vào cảnh cùng cực. Tình thế cách mạng xuất hiện.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 11 - 1939 đã kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Trung ương Đảng chủ trương phải nhanh chóng tổ chức quần chúng thành Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế, bao gồm tất cả các lực lượng có tinh thần chống đế quốc, giải phóng dân tộc. Hội nghị Trung ương tháng 11 – 1940 tiếp tục chủ trương của Hội nghị Trung ương tháng 11 – 1939.
Đến năm 1941, tình hình thế giới và trong nước đã có nhiều chuyển biến. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng. Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương họp (5 – 1941) tiếp tục hoàn chỉnh tư tưởng của hai Hội nghị Trung ương trước đó. Hội nghị khẳng định chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân; lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc là: “tất cả các tầng lớp, các giai cấp, các đảng phái, các dân tộc, các tôn giáo có tinh thần chống Pháp, Nhật, muốn độc lập cho đất nước, thành một mặt trận cách mạng chung”. Theo đề nghị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất lấy tên là Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh. Tháng 10 – 1941, Việt Minh công bố Tuyên ngôn, Chương trình, Điều lệ. Đây là lần đầu tiên, một MTDTTN có hệ thống tổ chức thống nhất từ Tổng bộ đến các kỳ, các tỉnh và tới các làng bản, với nhiều tổ chức chính trị yêu nước và các đoàn thể cứu quốc tham gia.
Trong cao trào chống Nhật cứu nước, các hội cứu quốc phát triển nhanh chóng, thanh thế của Việt Minh càng mở rộng. Khi Nhật đảo chính Pháp (9 – 3 – 1945), Trung ương Đảng ra Chỉ thị Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta, phong trào cách mạng dâng lên mạnh mẽ. Tháng 5 – 1945, phát xít Đức bị tiêu diệt, ngày 14 – 8 – 1945, Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng Đồng minh. Thời cuộc chuyển biến mau lẹ, thời cơ tổng khởi nghĩa giành chính quyền đã tới. Lãnh tụ Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào tiến lên dưới cờ Việt Minh “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào chủ trương lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền và cử ra Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc. Tiếp theo, Tổng bộ Việt Minh triệu tập Đại hội quốc dân Tân Trào. Đại hội thông qua lệnh khởi nghĩa và 10 chính sách của Việt Minh, quyết định Quốc kỳ, Quốc ca, cử Ủy ban Giải phóng dân tộc tức Chính phủ lâm thời do cụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Theo lời hiệu triệu của Việt Minh và lệnh của Ủy ban Khởi nghĩa, nhân dân cả nước vùng lên khởi nghĩa, chỉ trong vòng hai tuần lễ, đã giành chính quyền trong cả nước, cuộc Cách mạng Tháng Tám thắng lợi hoàn toàn.
Trải qua 15 năm vừa đấu tranh vừa xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng, MTDTTN với nhiều hình thức tổ chức, hình thức đấu tranh đã hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình, là nơi quy tụ sức mạnh toàn dân tộc đấu tranh lật đổ ách thống trị của đế quốc, phong kiến, giành độc lập, thống nhất cho Tổ quốc, giành quyền làm chủ về tay nhân dân.